Chuyển đổi số trong lĩnh vực tài chính tại Việt Nam

Cùng với nhịp đập nền kinh tế và các xu hướng chuyển đổi số trong lĩnh vực tài chính trên thế giới, nền kinh tế Việt Nam cũng đang có những bước chuyển mình mạnh mẽ trong quá trình chuyển đổi số.

1. Nền kinh tế số Việt Nam

Nền kinh tế kỹ thuật số đang bùng nổ tại Việt Nam. Năm 2016, Tạp chí PC đã mô tả Việt Nam là Thung lũng Silicon của Đông Nam Á. Các ngành mới nổi và ngành công nghiệp mặt trời mọc phát triển nhanh ở Việt Nam bao gồm công nghệ tài chính (Fintech), viễn thông, điện tử và sản xuất máy tính, và dịch vụ công nghệ thông tin và truyền thông (CNTT-TT).

Vào giữa năm 2018, Việt Nam là nơi có khoảng 30.000 doanh nghiệp trải rộng trên các phần cứng, phần mềm, nội dung số và dịch vụ CNTT. Việt Nam cũng có một cộng đồng thịnh vượng gồm các nhà phát triển phần mềm và khởi nghiệp, phát triển các sản phẩm và dịch vụ kỹ thuật số để sử dụng tại Việt Nam cũng như thực hiện phát triển phần mềm từ các nền kinh tế phát triển hơn. Ngoài ra còn có các trung tâm đào tạo chuyên gia và khu công nghệ cho các lập trình viên và kỹ sư CNTT.

Trong khi truyền hình và báo chí vẫn giữ được thị trường của mình, số người dùng thiết bị di động ngày càng tăng đang thúc đẩy nhu cầu trên toàn quốc về nội dung và tin tức kỹ thuật số. Cho đến nay Facebook vẫn là mạng xã hội phổ biến nhất tại Việt Nam với ước tính 53 triệu người dùng hoạt động. Chính phủ Việt Nam đang thúc đẩy sự phát triển của các mạng truyền thông xã hội địa phương thông qua các sáng kiến như Nền tảng kiến thức kỹ thuật số tiếng Việt, Nền tảng mở này khuyến khích người dùng phát triển ứng dụng và phần mềm khác bằng cách sử dụng dữ liệu và cơ sở hạ tầng của chính phủ.

Bắt đầu từ năm 2014, các mạng xã hội đã vượt qua các công cụ tìm kiếm để trở thành phương thức quảng cáo trực tuyến được sử dụng nhiều nhất cho các doanh nghiệp tại Việt Nam. Hầu hết khách hàng quảng cáo là doanh nghiệp gia đình về cá nhân bán hàng hóa và dịch vụ trực tuyến. Các nhóm này đã đóng góp nhiều nhất cho sự phát triển của quảng cáo trên mạng xã hội.

Từ năm 2012, các dịch vụ over – the – top (OTT) như Zalo, Skype và Viber bắt đầu thay thế các dịch vụ SMS và điện thoại truyền thống. Để cạnh tranh các nhà mạng lớn bao gồm Viettel và VNPT đã chuyển sang cung cấp dịch vụ OTT của riêng họ, như Viettel, Mocha hoặc Viettalk. Việt Nam đã trở thành một trong những thị trường lớn nhất cho các trò chơi trực tuyến ở Đông Nam Á. Năm 2018, Việt Nam xếp thứ 25 trên tổng số 100 quốc gia về tổng doanh thu trò chơi, với doanh thu tăng 123 triệu USD trong năm 2018 lên tới 490 triệu USD, vượt qua Philippines và Singapore. Flappy Bird của Nguyên Hà Đông là trò chơi miễn phí được tải xuống nhiều nhất trong cửa hàng Ứng dụng iOS năm 2014.

Thương mại điện tử là một trong những phân khúc phát triển nhanh nhất của nền kinh tế số của Việt Nam. Theo Cục thương mại điện tử và công nghệ thông tin Việt Nam (VECITA), thị trường thương mại điện tử của Việt Nam đang tăng trưởng 35% mỗi năm – nhanh hơn 2,5 lần so với Nhật Bản. Đến năm 2020, VECITA dự đoán số lượng người mua sắm trực tuyến sẽ tăng 52%, trong khi Hiệp hội Thương mại Điện tử Việt Nam (VECOM) dự đoán doanh thu trực tuyến sẽ đạt 10 tỷ USD.

Theo kế hoạch phát triển thương mại điện tử đến năm 2025, Việt Nam sẽ có khoảng 55% dân số mua sắm trực tuyến với giá trị mua hàng bình quân 600 USD/người/năm. Internet đã trở nên quan trọng để trao đổi thông tin giữa các doanh nghiệp, đặc biệt là các công ty xuất khẩu và nhập khẩu. Gần một nửa số doanh nghiệp của Việt Nam sở hữu một trang web (49%) và một phần ba doanh nghiệp (32%) đã thiết lập mối quan hệ với các đối tác nước ngoài thông qua các kênh trực tuyến.

Lĩnh vực Logistics đã phát triển nhanh chóng cùng với sự bùng nổ thương mại điện tử. Trong những năm gần đây, các doanh nghiệp hậu cần tăng trưởng trung bình 14-16% ( 40-42 tỷ USD) mỗi năm. Các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này đang chuyến đổi từ các công ty hậu cần truyền thông sang các công ty thương mại điện tử hậu cần để đối phó với sự cạnh tranh và thị trường mới. Theo báo cáo từ Hiệp hội doanh nghiệp Logistics Việt Nam, số lượng doanh nghiệp áp dụng công nghệ tăng từ 15-20% lên 40-50% trong những năm gần đây.

Báo cáo của Ngân hàng Thế giới về thương mại hậu cần năm 2018 cho thấy Việt Nam xếp thứ 45 trong số 160 quốc gia về phát triển logistics. Mặc dù có tiềm năng đáng kể, khả năng cạnh tranh của ngành này vẫn còn khá khiêm tốn so với các nước trong khu vực, đặc biệt là về công nghệ. Chẳng hạn, hệ thống robot trong kho chỉ được hai công ty tại Việt Nam là Schenker và Vinamilk ở Bình Dương áp dụng. Các công ty vận chuyển lớn trong nước vẫn đang xử lý hàng hóa thủ công mà không sử dụng các trung tâm phân phối tự động. Các công nghệ như thực tế ảo hoặc giao hàng bằng máy bay không người lái vẫn chưa được công bố trong bất kỳ kế hoạch triển khai công nghệ nào.

Du lịch đang bùng nổ tại Việt Nam. Ngành du lịch của Việt Nam đã nhanh chóng thay đổi và tăng chất lượng dịch vụ bằng cách sử dụng mô hình du lịch thông minh. Theo khảo sát của Tổng cục Du lịch Việt Nam, 71% khách du lịch quốc tế đến Việt Nam năm 2017 đã sử dụng các nguồn trực tuyến để xác định điểm đến du lịch của họ. Ngoài ra, 64% khách du lịch quốc tế đã đặt trực tuyến chuyến đi đến Việt Nam.

Gần 100% doanh nghiệp Việt Nam trong lĩnh vực du lịch đã sử dụng các trang web để giới thiệu sản phẩm của mình tới người tiêu dùng, tuy nhiên, chỉ có hơn 50% doanh nghiệp trong nước áp dụng thành công phương thức bán hàng và thanh toán trực tuyến. Đại dịch COVID – 19 đã giáng một đòn mạnh mẽ vào ngành du lịch Việt Nam. Tuy nhiên cho đến hiện tại ngành du lịch đang nhanh chóng phục hồi trở lại.

Năm 2018, ngành y tế của Việt Nam đặt ra các mục tiêu cụ thể để phát triển hệ thống y tế thông minh, với kế hoạch áp dụng các công nghệ kỹ thuật số vào ba trụ cột chính: phòng bệnh thông minh, khám và điều trị thông minh và quản trị y tế thông minh. “Mô hình mạng truyền thông số hóa chăm sóc sức khỏe” là một mạng lưới kín của các kênh truyền thông trong môi truờng bệnh viện, được vận hành và xử lý qua Internet. Vào năm 2018, mô hình đã được 40 bệnh viện và 500 nhà thuốc áp dụng. Hệ thống quản lý thông tin đang được số hóa.

Bộ Y tế đang mở rộng kế hoạch Hồ sơ y tế điện tử (EMR) cho các đơn vị trực thuộc trên cả nước sau khi thí điểm thành công theo Thông tư số 46/2018/TT- BYT. Hệ thống EMR này cho phép các cơ sở y tế ghi lại, hiển thị và lưu trữ dữ liệu y tế của mỗi người dân bằng kỹ thuật số. Việt Nam cũng đang tập trung vào phát triển hệ thống AI trong chẩn đoán. Viện nghiên cứu Dữ liệu lớn VinBDI thuộc tập đoàn Vingroup đã nghiên cứu và phát triển một trí tuệ nhân tạo mang tên VinDr. Tuy vẫn chỉ dừng ở mức nghiên cứu, nhưng gần như cả thế giới đang ở chung vạch xuất phát với công nghệ AI trong chẩn đoán hình ảnh, và Việt Nam hoàn toàn có cơ hội vươn lên hàng đầu.

Dịch vụ chính phủ điện tử đang phát triển nhanh chóng tại Việt Nam. Giống như ở các quốc gia đang phát triển khác, các Cơ quan chính phủ thường áp dụng các dịch vụ kỹ thuật số trước nhiều doanh nghiệp. Theo Nghị quyết số 17/NQ-CP, Việt Nam đặt mục tiêu trở thành một trong bốn quốc gia ASEAN hàng đầu về chỉ số phát triển Chính phủ điện tử (EGDI) vào năm 2025.

Trọng tâm chính của các sáng kiến của chính phủ điện tử Việt Nam là phát triển hệ thống hành chính chính phủ về tài chính, hải quan và quản lý thuế. Các ưu tiên mới hơn là phát triển và hỗ trợ các nền tảng và cơ sở hạ tầng cơ bản bao gồm phát triển IoT, Cổng dữ liệu mở và Quyền thông tin và liên lạc giữa các cơ quan. Theo Nghị quyết số 19/NQ-CP, đến năm 2020, Việt Nam đặt mục tiêu tích hợp hệ thống thông tin và cơ sở dữ liệu giữa các cơ quan ở tất cả các cấp chính quyền, với 20% người dùng được xác thực và thống nhất trên tất cả các hệ thống.

Nền kinh tế số Việt Nam đang phát triển toàn diện và nhanh chóng.  Lĩnh vực tài chính cũng không ngoại lệ. Việt Nam có nhiều tiềm năng và cơ hội để dẫn đầu trong quá trình chuyển đổi số ở lĩnh vực này.

2. Chuyển đổi số trong lĩnh vực tài chính của Việt Nam

Việt Nam là một ngôi sao đang lên trong hệ sinh thái Fintech toàn cầu. Giống như nhiều ngành tại Việt Nam, Fintech đã tăng trưởng nhanh chóng trong những năm gần đây. Cơ cấu hệ sinh thái Fintech đang thay đổi, tuy nhiên thanh toán vẫn chiếm tỷ lệ lớn, các phân khúc mới nổi như InsurTech, WealthTech và RegTech cũng thu hút sự quan tâm từ các nhà đầu tư trên toàn thế giới.

Đặc điểm nền kinh tế chính trị khiển chuyển đổi số trong lĩnh vực tài chính ở Việt Nam có những hướng đi riêng so với xu hướng thế giới. Chuyển đổi số trong lĩnh vực tài chính ở Việt Nam đang diễn ra nhanh nhưng vẫn chưa khai thác hết tiềm năng của nền kinh tế.

Fintech Việt Nam chú trọng vào mô hình mới và tìm những thị trường ngách để tạo ra sự đột phá thay vì nghiên cứu và phát triển những công nghệ mới. Việc hợp tác, hay liên doanh giữa các tổ chức tài chính và Fintech hầu như không có. Hệ sinh thái Fintech Việt Nam hầu hết nhận đầu tư từ các PE và VC nước ngoài với khoản đầu tư 410 triệu USD tính đến tháng 9/2019.

Việc sử dụng dữ liệu với mục đích thương mại chưa được chính thức hóa và đi kèm theo đó việc bảo mật dữ liệu chưa được các đơn vị chú trọng. Các lệnh cấm được thảo luận bởi các cơ quan chính phủ, với mức độ thực thi khác nhau đối với tiền điện tử và các vấn đề liên quan đến lừa đảo tiền điện tử đã xảy ra. Đồng thời các cơ quan quản lý cũng phát triển các chiến lược để đối phó với việc sử dụng bất hợp pháp tiền điện tử trong các luồng tiền tệ chéo.

Chính phủ và các cơ quan quản lý cũng tạo điều kiện cho sự phát triển của chuyển đổi số. Chính phủ Việt Nam cũng đã thiết lập các quy định cơ bản cho tài chính số, bao gồm thanh toán không dùng tiền mặt và dịch vụ thanh toán trung gian từ năm 2010. Kế hoạch tổng thể về thanh toán số hóa đã nhằm thúc đẩy thương mại điện tử tại Việt Nam được phát triển theo Quyết định số 1073/QDTTg của Thủ tướng từ năm 2010; và Nghị định số 52/2013/ND-CP của Chính phủ về thương mại điện tử từ năm 2013.

Vào tháng 11 năm 2012, Chính phủ Việt Nam đã ban hành Nghị định 101/2012/ND-CP chỉ đạo ban hành các quy định cho thanh toán không dùng tiền mặt. Thông tư 36/2012/TT-Ngân hàng Nhà nước và Thông tư số 39/2014/TT-Ngân hàng cũng đã được ban hành vào tháng 12 năm 2014, cung cấp hướng dẫn cho các dịch vụ thanh toán trung gian. Vào ngày 1 tháng 7 năm 2016, Nghị định 80/2016/NC-CP đã được ban hành dựa trên sửa đổi Nghị định 101. Sau đó, Thông tư số 20/2016/TT-Ngân hàng được ban hành dựa trên sửa đổi Thông tư số 39.

Chính phủ cũng ban hành chính sách hạn chế các giao dịch thanh toán bằng tiền mặt theo Nghị định số 222/2013/ND-CP của Chính phủ nhằm thúc đẩy thanh toán phí tiền mặt nhiều hơn. Đổi mới thanh toán bùng nổ với hàng loạt các dịch vụ thanh toán như: MoMo, Airpay, VinID Pay, Viettel Pay, Zalo Pay, VNPay QR. Thế nhưng theo báo cáo của Ngân hàng thế giới tỷ lệ giao dịch phi tiền mặt của Việt Nam chỉ đạt 4,9%.

Có thể thấy Việt Nam còn rất nhiều không gian để tiến hành chuyển đổi số. Với việc trở lại trạng thái bình thường mới nhanh hơn so với nhiều nước trên thế giới, cũng như tiềm năng chưa khai thác hết, Việt Nam có rất nhiều cơ hội để dẫn đầu công cuộc chuyển đổi số trong lĩnh vực tài chính. Tuy nhiên, cần phải xác định rõ những thách thức cần phải đối mặt và tìm cách giải quyết.

Thứ nhất, khung pháp lý chưa đủ chính xác, đặc biệt là đối với các công nghệ mới trong vấn đề an ninh và bảo mật. Thời gian để cập nhật, sửa đổi và bổ sung các văn bản pháp lý là quá dài và không bắt kịp sự phát triển nhanh chóng của công nghệ.

Thứ hai, cơ sở hạ tầng công nghệ của Việt Nam không đáp ứng được yêu cầu phát triển công nghệ cao, đặc biệt là công nghệ bảo mật.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *